CHẾ ĐỊNH NUÔI CON NUÔI TRONG NƯỚC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM (LHNVGĐ)

NỘI DUNG THỰC HIỆN

CHƯƠNG I.  GIỚI THIỆU CHUNG

Nuôi con nuôi là một đạo luật mang tính nhân đạo sâu sắc. Đạo luật này góp phần vào việc trong nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đặc biệt là trẻ em gặp những hoàn cảnh không may mắn như mồ côi hoặc bị cha, mẹ bỏ rơi. Luật nuôi con nuôi giúp các em có được một gia đình, được chăm sóc, nuôi dưỡng, đảm bảo cuộc sống về mặt vật chất và tinh thần nhằm thay thế gia đình ruột thịt mà các em đã lìa xa. Pháp luật Việt Nam khi qy định về việc nuôi con nuôi thể hiện được tính tiến bộ, sự nhân đạo trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em. Pháp luật về nuôi con nuôi đã xác định mục đích, nguyên tắc của việc nuôi con nuôi cũng như các điều kiện và cơ chế pháp lý của việc nuôi con nuôi.

1. Nuôi con nuôi là gì?

Theo khoản 1 Điều 3 Luật nuôi con nuôi 2010 có nêu định nghĩa như sau: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi”. Luật đưa ra quy định cụ thể về việc nuôi con nuôi như vậy là nhằm mục đích xác lập quan hệ cha, mẹ, con lâu dài vì một số quyền lợi ích hợp pháp của các bên, đảm bảo cho trẻ được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình mới một cách đầy đủ và phù hợp.

 Bên cạnh đó, Luật hôn nhân và gia đình cũng có quy định về nội dung này. Cụ thể, tại khoản 1 Điều 67 có nêu: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, đảm bảo cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội”. Cần lưu ý một điều, thời điểm việc đăng ký nuôi con nuôi được thực hiện, các bên đã trở thành cha mẹ nuôi và con nuôi của nhau thì các bên cũng sẽ có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con và của con đối với cha mẹ theo quy định của pháp luật.

2. Mục đích của việc nuôi con nuôi

Nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam hiện hành là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi[1]. Việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình[2]. Như vậy quan hệ nuôi con nuôi được thiết lập xuất pháp từ lơi ích của trẻ được nhận làm con nuôi. Nói một cách khác, mục đích cơ bản của chế định nuôi con nuôi là đem đến cho đứa trẻ một gia đình, chứ không phải đem đến cho gia đình một đứa trẻ.

Luật nuôi con nuôi (LNCN) Việt Nam khi quy định về mục đích của việc nuôi con nuôi hoàn toàn phù hợp với mục đích của việc nuôi con nuôi trong pháp luật quốc tế mà cụ thể là Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nm đã ký kết hoặc tham gia. Điều 21 Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em ghi rõ: “Các quốc gia thành viên công nhận hoặc cho phép chế độ nhận nuôi phải đảm bảo rằng những lợi ích tốt nhất của đứa trẻ phải là quan tâm cao nhất”. Việc nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam đáp ứng được mục tiêu cao cả đã xác định trong Công ước quốc tế này.

Việc pháp luật Việt Nam quy định mục đích nuôi con nuôi có ý nghĩa nhằm đảm bảo ý nghĩa xã hội của việc nhận nuôi con nuôi, quy định này nhằm đảm bảo quyền lợi của trẻ vị thành niên được nhận làm con nuôi. Ngoài ra quy định trên còn là căn cứ pháp lý để Tòa án dựa vào khi xem xét chấm dứt việc nuôi con nuôi có động cơ, mục đích không vì lợi ích của trẻ, để chống lại việc buôn bán trẻ em trá hình thông qua việc nuôi con nuôi.

3. Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi

Các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi bao gồm ba nguyên tắc: khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc; việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội; chỉ cho làm con nuôi người ở nước ngoài khi không thể tìm được gia đình thay thế ở trong nước.[3]

Nguyên tắc thứ nhất: Khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc.

Gia đình gốc đối với trẻ là môi trường gia đình trong đó tràn ngập tình yêu thương, cùng sự cảm thông, chăm sóc, giúp đỡ. Tất cả những tình cảm tốt đẹp đó sẽ tác động tích cực đến sự trưởng thành về tình cảm, trí tuệ và thể chất của trẻ em, giúp các em trở thành con người biết yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ và cảm thông với những người khác trong xã hội. Chính vì vậy, “ưu tiên hàng đầu đối với trẻ em là phải được cha mẹ đẻ chăm sóc” [4], “gia đình có trách nhiệm hàng đầu trong việc chăm sóc và bảo vệ trẻ em” [5]. Khi vì lý do đặc biệt nào đó mà trẻ em không thể sống chung cùng cha mẹ và gia đình gốc thì mới tìm cho các em gia đình thay thế thông qua việc được người khác nhận làm con nuôi.

Nguyên tắc thứ hai: Việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật xã hội.

Trong quan hệ nuôi con nuôi, cha mẹ nuôi và con nuôi đều thực hiện nghĩa vụ và quyền giữa cha mẹ và con với nhau. Cha mẹ nuôi thực hiện các nghĩa vụ và quyền của cha mẹ với người con nuôi và ngược lại người con nuôi cũng phải thực hiện các nghĩa vụ và quyền của con đối với cha mẹ nuôi của mình. Việc nuôi con nuôi phải được thực hiện trên tinh thần tự nguyện của các bên liên quan, không phân biệt người nhận nuôi trên cơ sở giới tính, tình trạng hôn nhân. Tương tự như vậy, các trẻ em khi đáp ứng được các điều kiện của người được nhận làm con nuôi thì các em đều bình đẳng với nhau ở khả năm được người khác nhận làm con nuôi mà quyền được người khác nhận làm con nuôi của trẻ em không bị giới hạn bởi các yếu tố như giới tính, dân tộc, sức khỏe, khả năng trí tuệ…

Nguyên tắc thứ ba: Chỉ cho làm con nuôi người ở nước ngoài khi không thể tìm được gia đình thay thế trong nước.

Nguyên tắc ưu tiên việc tìm gia đình thay thế trong nước trước khi cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài được ghi nhận cụ thể trong các văn kiện quốc tế. Công ước Lahay về nuôi con nuôi quốc tế, trong Lời nói đầu đã: “Công nhận rằng, nuôi con nuôi quốc tế là đem mái ấm gia đình cho trẻ em không tìm được một gia đình thích hợp tại nước gốc của mình”, “mỗi nước cần ưu tiên tiến hành các biện pháp thích hợp để trẻ em được chăm sóc trong gia đình gốc của mình”. Trẻ em là những đối tượng chưa trưởng thành về thể chất và trí tuệ, các em luôn có nhu cầu được bảo vệ và che chở, các em chỉ cảm nhận được sự an toàn, bình yên khi được nuôi dưỡng, chăm sóc trong một môi trường quen thuộc. Bị tách ra khỏi gia đình gốc đã là một sự thiệt thòi khó có thể bù đắp của trẻ em, trong hoàn cảnh đó cần tôn trọng nhu cầu của các em là được sống và phát triển trong môi trường quen thuộc về ngôn ngữ, ẩm thực và văn hóa, lối sống…

CHƯƠNG II.  QUAN HỆ PHÁP LUẬT GIỮA CHA, MẸ NUÔI VỚI CON NUÔI

1. Quy định pháp luật về nuôi con nuôi

a. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi

Theo quy định tại Điều 8 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 thì người được nhận làm con nuôi bao gồm:

Điều 8. Người được nhận làm con nuôi

1. Trẻ em dưới 16 tuổi

2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;

b) Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.

3. Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng.

4. Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi.

Điều kiện thứ nhất: độ tuổi của người được nhận làm con nuôi

Trước hết, những người dưới 16 tuổi theo Luật chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em được xác định là trẻ em. Trẻ em luôn được hiểu là các cá nhân chưa thể độc lập tự lo cuộc sống của mình về vật chất cũng như tinh thần. Theo quy định của Bộ luật dân sự, các em là những người chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, các em cần có sự giám sát, bảo trợ từ phía người lớn. Khi các em vì lý do nào đó bị tách ra khỏi cha mẹ ruột, thì sự giám hộ của người nhận nuôi đối với các em luôn là một sự cần thiết. Việc nuôi con nuôi hướng tới đối tượng trước tiên là trẻ em, nên pháp luật quy định độ tuổi tối đa của người được nhận làm con nuôi. Những người ở độ tuổi này chưa có sự trưởng thành nhất định về thể chất và tinh thần, rất cần sự quan tâm nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục của người lớn. Mặt khác, quy định độ tuổi của người con nuôi như vậy cũng tương ứng với quy định của các ngành luật khác như luật lao động, luật dân sự. Như vậy, quy định về độ tuổi của người được nhận nuôi là tương đối phù hợp về mặt lí luận và thực tiễn.

Điều kiện thứ hai: Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng.

Một gia đình có thể nhận nhiều người làm con nuôi. Nhưng một gia đình chỉ được làm con nuôi của một gia đình. Quy định này không cho phép một người có thể làm con nuôi đồng thời trong nhiều gia đình khác nhau. Sự cần thiết phải đặt ra quy định này của pháp luật được lý giải bởi lý do người con nuôi cần được nuôi dưỡng, chăm sóc, theo quan điểm thống nhất, nhất quán từ một gia đình nhất định, phải có những người cụ thể chịu trách nhiệm về việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con nuôi. Quy định này là góp phần loại bỏ khả năng lợi dụng việc nhận nuôi để tiến hành việc mua bán, chiếm đoạt trẻ em – một đối tượng rất cần sự bảo vệ của nhà nước và pháp luật vì thực chất họ không thể tự bảo vệ mình.

Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi tại các nơi công cộng hoặc cơ sở y tế mà chưa được chuyển vào chăm sóc nuôi dưỡng ở cơ sở trợ giúp xã hội, nếu có người nhận tạm thời nuôi dưỡng cũng có thể được nhận làm con nuôi. Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi tại cơ sở y tế, cơ sở y tế đó phải thông báo cho UBND cấp xã nơi đặt trụ sở của cơ sở y tế để thực hiện các thủ tục cần thiết đối với trẻ em bị bỏ rơi theo quy định của pháp luật về hộ tịch, sau đó mới tiến hành đăng ký việc nuôi con nuôi. Trường hợp xác định được cha mẹ đẻ của trẻ em, UBND cấp xã có thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi phải tiến hành lấy ý kiến đồng ý của cha mẹ đẻ về việc cho trẻ em làm con nuôi trước khi giải quyết cho trẻ em làm con nuôi.

b. Điều kiện đối với người nhận con nuôi

Cá nhân muốn nhận con nuôi thì phải đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật nuôi con nuôi năm 2010, cụ thể các điều kiện bao gồm:

1. Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây:

a)     Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;

b)    Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;

c)     Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi;

d)    Có tư cách đạo đức tốt.

Ngoài ra, trường hợp cha dượng nhận con riêng của vơ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định tại điểm b và c của khoản 1 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi năm 2010.

Việc pháp luật xác định người nhận nuôi phải hơn con nuôi từ 20 tuổi nhằm mục đích tạo ra sự các biệt về thế hệ giữa những người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Sự cách biệt này vô cùng cần thiết để hình thành thái độ kính trọng của người con nuôi với người cha, mẹ nuôi cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng của cha, mẹ nuôi với con nuôi và chính sự cách biệt thế hệ này giúp giảm thiểu tình trạng cha, mẹ nuôi lạm dụng tình dục với con nuôi.

Tư cách đạo đức là một phạm trù không có sự đồng nhất về tiêu chí, chuẩn mực để xác định. Nhưng trong thực tế nếu người nhận nuôi là những người nghiện hút, rượu chè, cờ bạc, có lối sống buông thả, đồi trụy, thực hiện các hành vi trái pháp luật có hệ thống…được xác định là những người có tư các đạo đức không tốt. Những liệt kê trên chỉ là yếu tố điển hình thể hiện tư cách đạo đức, còn trong từng trường hợp cụ thể thì vấn đề đó sẽ được nhà áp dụng pháp luật xem xét và quyết định.

Thêm vào đó, chúng ta có thể tham khảo tại khoản 2 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 cũng quy định về nhưỡng người không được nhận con nuôi.

- Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;

- Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh;

- Đang chấp hành hình phạt tù;

- Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.

Pháp luật đặt ra những quy định không cho phép những người đang ở tình trạng đặc biệt nêu ở trên nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi của trẻ em. Những người đang chấp hành hình phạt tù thì không đảm bảo điều kiện về kinh tế, chỗ ở để bảo đảm cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi quy định hạn chế này là phù hợp với Khoản 1 Điều 14 LNCN năm 2010. Có thể khẳng định, quy định nêu trên của pháp luật nhằm đảm bảo cho người được nhận làm con nuôi được sống trong môi trường lành mạnh, được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục tốt về thể chất và nhân cách. Pháp luật đặt ra quy định này nhằm mục đích “phòng ngừa” và bảo vệ người được nhận làm con nuôi khỏi các nguy cơ bị lam dụng, xâm hại sức khỏe, tính mạng, danh sự, nhân phẩm…

c. Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi

Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:

“Giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con được quy định tại Luật này, Luật nuôi con nuôi, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.”

Kể từ thời điểm đăng ký việc nuôi con nuôi; quan hệ pháp luật giữa cha mẹ nuôi và con nuôi được xác lập; giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ con theo quy định tại Luật hôn nhân và gia đình. Theo nguyên tắc không phân biêt đối xử giữa các con: con nuôi có các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản đối với cha mẹ nuôi như con đẻ và ngược lại. Tức là, giữa cha mẹ nuôi với con nuôi có các quyền và nghĩa vụ như giữa cha mẹ đẻ với con đẻ được quy định tại chương V (từ Điều 68 đến Điều 87 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014).

Trường hợp một người khi làm con nuôi người khác thì cha, mẹ nuôi có quyền yêu cầu thay đổi họ, tên xác định dân tộc cho người con nuôi (theo Điều 24 Luật nuôi con nuôi)

“2. Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc thay đổi họ, tên của con nuôi.

Việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ 09 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó.

3. Dân tộc của con nuôi là trẻ em bị bỏ rơi được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi.”

Theo truyền thống của gia đình Việt Nam và dựa tên chuẩn mực đạo đức xã hội, việc kết hôn giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa những người đã từng là cha, mẹ nuôi và con nuôi của nhau sẽ bị pháp luật cấm (điểm d khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình).

Đồng thời, theo quy định của Luật nuôi con nuôi năm 2010, việc nhận nuôi con nuôi không “chấm dứt” hoàn toàn quan hệ giữa người con nuôi với cha, mẹ đẻ của mình. Đặc biệt trong quan hệ tình cảm giữa con nuôi và cha mẹ đẻ của mình. Theo quy định tại Điều 26, cha mẹ đẻ có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi khi có căn cứ pháp lý phù hợp. Tòa án có thể quyết định giao lại người đó cho cha mẹ đẻ trông nom, nuôi dưỡng.

d. Chấm dứt việc nuôi con nuôi

Khác với quan hệ pháp luật giữa cha mẹ ruột và con ruột không thể chấm dứt theo quy định của pháp luật, quan hệ pháp luật giữa cha mẹ nuôi với con nuôi có thể chấm dứt trong một số trường hợp cụ thể mà pháp luật quy định.

Quan hệ nuôi dưỡng giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi chỉ có thể chấm dứt bằng quyết định của Tòa án. Tòa án có thể quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi trong các trường hợp được quy định tại Điều 25 Luật nuôi con nuôi 2010:

“Điều 25. Căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi

Việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau đây:

1. Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi;

2. Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi;

3. Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi;

4. Vi phạm quy định tại Điều 13 của Luật này.”

Theo quy định của LNCN, các chủ thể sau có quyền yêu cầu Tòa án chấm dứt nuôi con nuôi; cha mẹ nuôi; con nuôi đã thành niên; cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của con nuôi. Các cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi khi cha, mẹ nuôi, con nuôi có các hành vi vi phạm thuộc vào các căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi đã nêu ở phần trên: cơ quan lao động, thương binh và xã hội; hội liên hiệp phụ nữ.

e. Hệ quả pháp lý của việc chấm dứt nuôi con nuôi

Khi quan hệ nuôi con nuôi chấm dứt sẽ làm hình thành một số vấn đề cần giải quyết liên quan đến người con nuôi như các quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản của người nuôi con nuôi.

Khi quan hệ nuôi con nuôi chấm dứt, người đã làm con nuôi là người đã thành niên thì họ tự quyết định mọi vấn đề liên quan đến cuộc sống của mình không cần phụ thuộc vào bất kỳ chủ thể nào. Theo quy định tại Điều 27 Luật nuôi con nuôi năm 2010:

“Điều 27. Hệ quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi

1. Quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định chấm dứt nuôi con nuôi của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

2. Trường hợp con nuôi là người chưa thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì Tòa án quyết định giao cho cha mẹ đẻ hoặc tổ chức, cá nhân khác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục vì lợi ích tốt nhất của người đó.

3. Trường hợp con nuôi được giao cho cha mẹ đẻ thì các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đẻ đã chấm dứt theo quy định tại khoản 4 Điều 24 của Luật này được khôi phục.

4. Trường hợp con nuôi có tài sản riêng thì được nhận lại tài sản đó; nếu con nuôi có công lao đóng góp vào khối tài sản chung của cha mẹ nuôi thì được hưởng phần tài sản tương xứng với công lao đóng góp theo thỏa thuận với cha mẹ nuôi; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

5. Con nuôi có quyền lấy lại họ, tên của mình như trước khi được cho làm con nuôi.”

Theo quy định tại Điều 24 LNCN: “Trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi.” Tuy nhiên, khi quan hệ nuôi con nuôi chấm dứt, tòa án quyết đinh giao người con đó cho cha mẹ đẻ thì các quyền và nghĩa vụ giữa họ vốn đã bị chấm dứt khi việc nuôi con nuôi được thiết lập sẽ được phục hồi lại đầy đủ.

f. Các hành vi bị cấm trong lĩnh vực nuôi con nuôi

           Luật nuôi con nuôi đã quy định 07 nhóm hành hành vi bị cấm tại Điều 13 như sau:

- Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hạn tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em

Đây là hành vi có tính chất nghiêm trọng. Hành vi này trực tiếp xâm hại đến người được nhận làm con nuôi – đối tượng mà lẽ ra cần được bảo vệ hơn bất kỳ một chủ thể nào khác trong quan hệ nuôi con nuôi (hành vi bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em) hoặc làm biến dạng bản chất của việc nuôi con nuôi (lợi dụng việc nhận con nuôi để trục lợi).

- Giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi

Đây là hành vi làm giả giấy tờ liên quan đến hồ sơ giải quyết việc nuôi con nuôi (chẳng hạn, trẻ em có cha, mẹ đẻ nhưng lại làm giả biên bản xác nhận trẻ em bị bỏ rơi để lẩn tránh việc lấy ý kiến của cha, mẹ đẻ khi giải quyết việc nuôi con nuôi), hoặc giấy tờ là có thật nhưng thông tin không đúng (ví dụ: như giấy khám sức khỏe của người nhận con nuôi do cơ quan y tế có thẩm quyền cấp khẳng định người này không mắc bệnh truyền nhiễm, đủ khả năng để nhận con nuôi, nhưng thực tế người nhận con nuôi là mắc bệnh nặng, ảnh hưởng đến sức khỏe của con nuôi). Việc giả mạo giấy tờ như vậy sẽ làm sai lệch có tình tiết liên quan đến điều kiện nuôi con nuôi của người nhận con nuôi hoặc người được nhận làm con nuôi.

- Phân biệt đối xử giữa con để và con nuôi

Đây là hành vi vi phạm nguyên tắc bình đẳng trong việc nuôi con nuôi. Việc phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi sẽ dẫn đến quyền và lợi ích của con nuôi không được đảm bảo, làm tổn thương và ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển bình thường của con nuôi.

- Lợi dụng việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số

Hành vi này có liên quan trực tiếp đến việc thực hiện nguyên tắc không phân biệt nam nữ trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi. Việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số chủ yếu phát sinh đối với các gia đình sinh con một bề (thường là sinh con gái). Những gia đình này thường cho con đẻ đi làm con nuôi, sau đó lại sinh thêm con có giới tính như ý muốn. Việc cho con nuôi như vậy đã vi phạm chính sách dân số, vì vậy cần bị cấm.

- Lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu só để hưởng chế độ, chính sách ưu đã của Nhà nước

Thực tiễn công tác giải quyết việc nuôi con nuôi trong những năm qua cho thấy, có nhiều trường hợp nhận con nuôi trong nước nhằm lợi dụng chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với một số đối tượng nhất định như thương binh, người có công với cách mạng…Cả hai bên cha mẹ nuôi và con nuôi đều không có “nhu cầu” tạo lập mối quan hệ lâu dài; con nuôi không về sống chung với cha mẹ nuôi, không có nhu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục…Cha mẹ nuôi nhận con nuôi không phải vì không có con hay vì điều kiện “dư giả” để nhận nuôi dưỡng thêm một trẻ em khác, mà chủ yếu chỉ để cho con nuôi được hưởng chính sách ưu đãi của nhà nước như cộng thêm điểm xét truyển thi vào đại học, để hưởng trợ cấp, chế độ đãi ngộ của thương binh, người có công với cách mạng…

- Ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị em nhận nhau làm con nuôi

Đây là việc nuôi con nuôi giữa những người có quan hệ huyết thống nhưng lại làm đảo lộn trật tự ngôi thứ trong gia đình, không phù hợp với truyền thống văn hóa của người Việt Nam. Chẳng hạn như, một người đang là cháu, được ông, bà nhận làm con nuôi thì sẽ trở thành “con”, và như vậy sẽ bằng vai với bố mẹ đẻ của mình. Rõ ràng sự thay đổi về ngôi thứ như vậy sẽ không được thừa nhận trong xã hội Việt Nam.

- Lợi dung việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật, phong tục tập quán, đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc

Hành vi này cũng vi phạm nguyên tắc quy định tại khoản 2, Điều 4 Luật Nuôi con nuôi. Lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật được đề cập ở đây là pháp luật nói chung chứ không phải chỉ có pháp luật về hôn nhân và gia đình. Chẳng hạn lợi dụng việc nuôi con nuôi đối với trẻ em dưới 36 tháng tuổi để trốn tránh việc thi hành hình phạt tù.

2. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi và con nuôi

Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.[6]

Quan hệ pháp luật giữa cha mẹ nuôi và con nuôi và quan hệ pháp luật giữa cha mẹ đẻ và con đẻ giống nhau về mặt quyền và nghĩa vụ. Pháp luật đồng nhất địa vị pháp lý của con nuôi trong quan hệ đối với cha mẹ nuôi giống như con đẻ với cha mẹ đẻ, cụ thể là trong Luật Hôn nhân và gia đình, chế định quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con được áp dụng cho quan hệ cha mẹ, con phát sinh dựa vào sự kiện sinh đẻ và cũng được áp dụng cho quan hệ cha mẹ, con phát sinh dựa vào sự kiện nuôi dưỡng mà không có bất kì khác biệt nào tồn tại.

Thứ nhất: Cha mẹ nuôi và con nuôi có nghĩa vụ và quyền cụ thể đối với nhau như nuôi dưỡng, chăm sóc nhau, cũng như nghĩa vụ phải cấp dưỡng cho nhau khi cần thiết. Cha mẹ nuôi được hưởng tất cả các quyền bảo hiểm xã hội liên quan đến việc nuôi dạy con. (Ví dụ: nghỉ nuôi con nhỏ, nghỉ khi con ốm đau, được nhận tiền trợ cấp nuôi con…).

Thứ hai: Trong trường hợp cha mẹ nuôi ly thân với nhau, tòa án sẽ quyết định giao con cho cha hoặc mẹ nuôi dưỡng, nghĩa vụ cấp dưỡng cho con và quyền thăm nom, chăm sóc con của cha mẹ nuôi không có bất kỳ sự khác biệt nào so với các nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đẻ với con đẻ.

Thứ ba: Con nuôi có quyền thừa kế theo pháp luật tài sản của cha mẹ nuôi trên cơ sở bình đẳng với con đẻ của cha mẹ nuôi và cha mẹ nuôi có quyền thừa kế theo pháp luật tài sản của con nuôi.

Cần lưu ý là pháp luật Việt Nam không qui định việc chấm dứt về mặt pháp lý quan hệ cha mẹ và con giữa đứa trẻ được nhận làm con nuôi với cha mẹ đẻ của mình. Theo quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam thì trẻ em được nhận làm con nuôi và cha mẹ đẻ vẫn có quyền thừa kế theo pháp luật tài sản của nhau.

CHƯƠNG III.  QUAN HỆ PHÁP LUẬT GIỮA CON NUÔI VỚI CÁC THÀNH VIÊN KHÁC TRONG GIA ĐÌNH

Một trong những điểm mới của LNCN so với pháp luật hôn nhân và gia đình điều chỉnh về quan hệ nuôi con nuôi thời gian trước đây được thể hiện ở nội dung LNCN khẳng định một cách rõ ràng và cụ thể về sự tồn tại mối quan hệ pháp luật giữa con nuôi với các thành viên trong gia đình cha mẹ nuôi. Giữa những người nêu trên có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định khác của pháp luật liên quan. Điều đó có nghĩa là giữa người con nuôi và những người con khác của cha mẹ nuôi xác lập quan hệ pháp luật giữa anh, chị, em với nhau; giữa người con nuôi với cha, mẹ của cha, mẹ nuôi sẽ có quan hệ ông, bà và cháu…Những người này cũng phải thực hiện nghĩa vụ và quyền yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, giám hộ, thừa kế…với nhau theo quy định của pháp luật.

Căn cứ khoản 1 Điều 24 Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định, kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa con nuôi và cha mẹ nhận nuôi sẽ có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con. Đồng thời, mối quan hệ giữa con nuôi và các thành viên trong gia định người nhận nuôi sẽ có các quyền và nghĩa vụ đối với nhau tho quy định tại pháp luật hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác có liên quan.

- Mối quan hệ giữa cha mẹ đẻ của cha mẹ nuôi (ông bà nội – ngoại) với con được nhận nuôi

Mối quan hệ giữa con nuôi và các thành viên khác trong gia đình người nhận nuôi: Cụ thể là ông bà nội ngoại hai bên với cháu nuôi sẽ có mối quan hệ theo Điều 104 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo đó, ông bà nội – ngoại sẽ có quyền và nghĩa vụ chăm nom, chăm sóc, giáo dục cháu, trong trường hợp cháu chưa thành niên không có người nuôi dưỡng thì ông bà nội – ngoại phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu. Đồng thời, cháu phải có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc ông bà nội – ngoại. Giữa ông bà và cháu có quyền và nghĩa vụ trong việc cấp dưỡng cho nhau theo quy định tại Điều 107, 113 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Mặc dù pháp luật chưa quy định cụ thể về việc con nuôi được thừa kế thế vị. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi dựa trên quy định tại điểm b khoản 1 Điều 651 và Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2015 thì người được nhận nuôi sẽ vẫn sẽ được hưởng quyền và nghĩa vụ như con đẻ, đồng nghĩa với việc họ vẫn sẽ được hưởng thừa kế thế vị.

- Mối quan hệ giữa con được nhận nuôi với con đẻ của cha mẹ nuôi

Luật Hôn nhân và gia đình cũng thể hiện rất rõ về mối quan hệ này. Theo đó, con đẻ của cha mẹ nuôi và con nuôi có các quyền và nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau, yêu thương nhau, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng cho nhau khi cha mẹ không có điều kiện.

- Mối quan hệ giữa con được nhận nuôi với anh, chị em ruột của cha mẹ nuôi

Căn cứ tại Điều 106, điều 114 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định họ có quyền và nghĩa vụ phải chăm sóc, yêu thương giúp đỡ lẫn nhân, đồng thời cũng có nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng nhau.

Tuy nhiên, hiện nay tại Khoản 1 Điều 24 Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định không rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của con nuôi và các thành viên khác trong gia định người nhận nuôi, điều này sẽ dễ gây ra tranh chấp, giảm sút ý nghĩa của việc nhận con nuôi.

CHƯƠNG IV.  THẨM QUYỀN, TRÌNH TỰ, THỦ TỤC ĐĂNG KÝ VIỆC NUÔI CON NUÔI

1. Thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi

Thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước được quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Nuôi con nuôi và được cụ thể hóa tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP. Cụ thể như sau:

a. Đối với trẻ em có cha, mẹ đẻ hoặc người giám hộ

- Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (UBND cấp xã) nơi thường trú của người được nhận làm con nuôi có thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi.

- Trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ/chồng làm con nuôi; cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi hoặc có sự thỏa thuân giữa người nhận con nuôi với cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em được nhận làm con nuôi thì UBND cấp xã nơi thường trú của người nhận con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi.

b. Đối với trẻ em bị bỏ rơi

- Nếu trẻ em bị bỏ rơi mà chư được chuyển vào cơ sở trợ giúp xã hội (đang được giao cho cá nhân tạm thời nuôi dưỡng), thì UBND cấp xã nơi lập biên bản xác nhận tình trạng trẻ em bị bỏ rơi có thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi

- Nếu trẻ em bị bỏ rơi đã được đưa vào cơ sở trợ giúp xã hội thì UBND cấp xã nơi có trụ sở của cơ sở trợ giúp xã hội có thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi.

2. Hồ sơ của người nhận con nuôi

Theo Điều 17 Luật nuôi con nuôi 2010, hồ sơ của người nhận con nuôi gồm:

- Đơn xin nhận con nuôi;

- Bản sao Hộ chiếu, Giấy chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ có giá trị thay thế;

- Phiếu lý lịch tư pháp;

- Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân;

- Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp; văn bản xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế do UBND cấp xã nơi người nhận con nuôi thường trú cấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 14 của Luật nuôi con nuôi 2010.

3.  Hồ sơ của người được nhận nuôi trong nước

Theo Điều 18 Luật nuôi con nuôi 2010, hồ sơ của người được nhận nuôi trong nước gồm:

- Giấy khai sinh;

- Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp;

- Hai ảnh toàn thân, nhìn thẳng chụp không quá 06 tháng;

- Biên bản xác nhận do UBND hoặc Công an cấp xã nơi phát hiện trẻ bị bỏ rơi lập đối với trẻ em bị bỏ rơi;

Giấy chứng tử của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của trẻ em là đã chết đối với trẻ em mồ côi;

Quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của người được giới thiệu làm con nuôi mất tích đối với người được giới thiệu làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ đẻ mất tích;

Quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của người được giới thiệu làm con nuôi mất năng lực hành vi dân sự đối với người được giới thiệu làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ để mất năng lực hành vi dân sự;

- Quyết định tiếp nhận đối với trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng.

4. Trình tự thực hiện đăng ký nhận con nuôi

Bước 1: Nộp hồ sơ đăng ký nhận con nuôi

- Người nhận con nuôi phải nộp hồ sơ của mình và hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi tại UBND cấp xã nơi người được giới thiệu làm con nuôi thường trú hoặc nơi người nhận con nuôi thường trú.

*Thời hạn giải quyết việc nhận con nuôi là 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ.

Bước 2: Kiểm tra hồ sơ, lấy ý kiến của những người liên quan

- UBND cấp xã nơi nhận hồ sơ có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ;

- Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, tiến hành xong việc lập ý kiến của những người liên quan tại mục 4 bài viết này.

- Việc lấy ý kiến phải lập thành văn bản và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người được lấy ý kiến.

Bước 3: Cấp giấy chứng nhận nhận nuôi con nuôi

- UBND xét thấy người nhận con nuôi và người được giới thiệu làm con nuôi có đủ điều kiện theo quy định UBND cấp xã tổ chức đăng ký nuôi con nuôi.

- UBND trao Giấy chứng nhận nuôi con nuôi cho cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi dưỡng, tổ chức giao nhận con nuôi;

Ghi vào sổ hộ tịch trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày có ý kiến đồng ý của những người tại mục 4 bài viết này.

- Trường hợp UBND cấp xã từ chối đăng ký, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có ý kiến của những người quy định tại mục 4, UBND cấp xã phải trả lời bằng văn bản cho người nhận con nuôi, cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi dưỡng và nêu rõ lý do.

- Giấy chứng nhận nuôi con nuôi được gửi UBND cấp xã nơi thường trú của người nhận con nuôi hoặc của người được nhận làm con nuôi.

Ngoài ra, Điều 23 Luật nuôi con nuôi 2010 cũng quy định, 06 tháng/lần trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ nuôi có trách nhiệm thông báo cho UBND cấp xã nơi họ thường trú về tình trạng sức khỏe, thể chất, tinh thần, sự hòa nhập của con nuôi với cha mẹ nuôi, gia đình, cộng đồng.

UBND cấp xã nơi cha mẹ nuôi thường trú có trách nhiệm kiểm tra, theo dõi tình hình thực hiện việc nuôi con nuôi.

5. Đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới

   Người nước ngoài thường trú ở khu vực biên giới của nước láng giềng nhận trẻ em Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới của Việt Nam làm con nuôi

Theo quy định tại Điều 21 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP, người nước ngoài thường trú ở khu vực biên giới của nước láng giềng nhận trẻ em Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới của Việt Nam làm con nuôi được đăng ký tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của trẻ em được nhận làm con nuôi. Tuy nhiên, trước khi tiến hành đăng ký việc nuôi con nuôi, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, UBND cấp xã có văn bản gửi Sở Tư pháp kèm them 1 hồ sơ của người nhận con nuôi và 01 bộ hồ sơ của trẻ em để xin ý kiến. Sở Tư pháp cho ý kiến trả lời văn bản của UBND cấp xã trong thời hạn 05 ngày, UBND cấp xã tiến hành đăng ký việc nuôi con nuôi và giao nhận con nuôi theo quy định của pháp luật.

Hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi, thủ tục kiểm tra hồ sơ, lấy ý kiến của những người có liên quan, giao nhận con nuôi được thực hiện tương tự như nuôi con nuôi trong nước.

   Công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới nhận trẻ em của nước láng giềng cư trú ở khu vực biên giới của nước láng giềng làm con nuôi.

Theo điều 22 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP, công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới nhận trẻ em của nước láng giềng cư trú ở khu vực biên giới của nước láng giềng làm con nuôi phải nộp hồ sơ tại Sở Tư pháp để Sở Tư pháp kiểm tra hồ sơ và xác nhận người đó đủ điều kiện nuôi con nuôi theo quy định tại Điều 14 Luật Nuôi con nuôi. Sau khi đăng ký việc nuôi con nuôi tại cơ quan có thẩm quyền của nước láng giềng, người nhận con nuôi phải ghi chú việc nuôi con nuôi tại UBND xã nơi người đó thường trú.

NỘI DUNG CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM A, B, C, D (06 câu cho mỗi đề tài)

1.     Dân tộc của trẻ em bị bỏi rơi được xác định như thế nào?

A. Xác định tại nơi trẻ em đó được nhận làm con nuôi

B. Xác định theo ADN

C. Xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi

D. Tất cả các đáp án trên điều sai

Key: Theo Khoản 3 Điều 24 Luật nuôi con nuôi 2010 thì Dân tộc của con nuôi là trẻ em bị bỏ rơi được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi.

2.     Người bao nhiêu tuổi khi không còn cha mẹ, người thân thì sẽ được nhận làm con nuôi?

A. Người dưới 16 tuổi

B. Người dưới 18 tuổi

C. Người dưới 17 tuổi

D. Người từ đủ 16 tuổi đến 18

Key: Căn cứ Khoản 1 Điều 8 Luật nuôi con nuôi 2010 thì người được nhận làm con nuôi là trẻ em dưới 16 tuổi.

3.     Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc thay đổi họ, tên của con nuôi. Việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ bao nhiêu tuổi phải được sự đồng ý của người đó.

A. 3 tuổi

B. 7 tuổi

C. 9 tuổi

D. 15 tuổi

Key: Căn cứ Khoản 2 Điều 24 Luật nuôi con nuôi 2010 thì việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ 09 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó.

4.     Thẩm quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi thuộc về cơ quan nào?

A.  Tổ dân phố

B. Hội liên hiệp phụ nữ

C. Tòa án nhân dân

D. Ủy ban nhân dân cấp huyện

Key: Theo quy định tại Điều 10 Luật nuôi con nuôi 2010 thì Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

5.     Trong những người sau đây thì thứ tự ưu tiên lựa chọn gia đình nhận trẻ em làm con nuôi (gia đình thay thế) được thực hiện như thế nào?

A. Công dân Việt Nam thường trú trong nước

B. Cha dượng

C. Công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài

D. Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam

Key: Theo Khoản 1 Điều 5 Luật nuôi con nuôi 2010 thì: 1. Thứ tự ưu tiên lựa chọn gia đình thay thế được thực hiện quy định sau đây: a) Cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi; b) Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước;

6.     Giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con được quy định tại?

A.  Luật Hôn nhân và gia đình

B.  Luật nuôi con nuôi

C.  Bộ luật dân sự

D. Tất cả đều đúng

Key: Căn cứ khoản 1 Điều 24 Luật nuôi con nuôi 2010 thì 1. Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Văn bản quy phạm pháp luật

- Bộ luật Dân sự năm 2015

- Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014

- Luật Nuôi con nuôi năm 2010

- Luật Hộ tịch năm 2014

- Nghị định 19/2011/NĐ-CP hướng dẫn Luật Nuôi con nuôi

- Nghị định 24/2019/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 19/2011 hướng dẫn Luật Nuôi con nuôi

2. Giáo trình và trang thông tin điện tử

 Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam - Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh năm 2016

 Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ Hộ tịch của Bộ Tư pháp năm 2016

- Một số quy định pháp luật về nuôi con nuôi, https://stp.thuathienhue.gov.vn/?gd=26&cn=696&tc=6073#:~:text=1.4.&text=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c%20nh%E1%BA%ADn%20l%C3%A0m%20con%20nu%C3%B4i%20ph%E1%BA%A3i%20%C4%91%C3%A1p%20%E1%BB%A9ng%20nh%E1%BB%AFng,d%C3%AC%2C%20ch%C3%BA%2C%20b%C3%A1c%20ru%E1%BB%99t. , đăng tải ngày 15/06/2021 [truy cập ngày 21/10/2022]

- Ngô Hà Chi: “Quy định của pháp luật về nuôi con nuôi”, https://tapchitoaan.vn/quy-dinh-cua-phap-luat-ve-nuoi-con-nuoi , đăng tải ngày 28/10/2022 [truy cập ngày 21/10/2022]


[1]  Khoản 1 Điều 3 LNCN năm 2010

[2]  Điều 2 LNCN năm 2010

[3]  Điều 4 LNCN năm 2010

[4]  Điều 3 Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về các nguyên tắc pháp lý và xã hội liên quan đến phúc lợi và bảo vệ trẻ em.

[5]  Lời mở đầu của Công ước quốc tế về quyền trẻ em của Liên Hiệp Quốc, 1989.

[6] Khoản 1 Điều 24 LNCN 2010

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn